Quyền tư pháp

Tư pháp (còn được gọi là hệ thống tư pháp hoặc hệ thống tòa án) là hệ thống các tòa án giải thích và áp dụng luật pháp nhân danh nhà nước.

Tư pháp cũng cung cấp một cơ chế giải quyết tranh chấp.

Theo học thuyết phân chia quyền lực, tư pháp nói chung không làm luật (nghĩa là nó trách nhiệm của cơ quan lập pháp) hoặc thực thi luật (là trách nhiệm của hành pháp) mà là giải thích luật và áp dụng nó vào thực tế của từng trường hợp.

Chi nhánh này của nhà nước thường được giao nhiệm vụ đảm bảo công bằng theo pháp luật.

Nó thường bao gồm một tòa án kháng cáo cuối cùng (được gọi là “tòa án tối cao” hoặc “tòa án hiến pháp”) cùng với các tòa án cấp dưới.

Trong nhiều khu vực tài phán, ngành tư pháp có quyền thay đổi luật thông qua quá trình xem xét tư pháp.

Các tòa án có quyền xem xét tư pháp có thể hủy bỏ các luật và quy tắc của nhà nước khi thấy luật đó không phù hợp với một tiêu chuẩn cao hơn như luật pháp chính, các quy định của hiến pháp hoặc luật pháp quốc tế.

Các thẩm phán tạo thành một lực lượng quan trọng để giải thích và thực thi hiến pháp nên trên thực tế phổ biến tại các quốc gia thì tư pháp tạo ra toàn bộ nội dung của luật hiến pháp.

Ở Mỹ trong những thập kỷ gần đây, ngành tư pháp đã trở nên tích cực trong các vấn đề kinh tế liên quan đến quyền kinh tế được thiết lập bởi hiến pháp vì “kinh tế học có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về các câu hỏi mang tính giải thích pháp lý phù hợp”.

Do nhiều quốc gia có hệ thống chính trị và kinh tế chuyển tiếp tiếp tục coi hiến pháp của họ là văn bản pháp lý trừu tượng tách ra khỏi chính sách kinh tế của nhà nước nên thực tiễn đánh giá tư pháp về các hành vi kinh tế của các cơ quan hành pháp và lập pháp đã bắt đầu phát triển.

Ngân sách của ngành tư pháp ở nhiều nước chuyển tiếp và đang phát triển gần như hoàn toàn do cơ quan hành pháp kiểm soát. Sau cùng đã làm suy yếu sự phân chia quyền lực vì nó tạo ra sự phụ thuộc tài chính quan trọng của ngành tư pháp.

Phân phối tài sản quốc gia thích hợp bao gồm cả chi tiêu của chính phủ cho tư pháp là đối tượng của kinh tế lập hiến.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa hai phương thức tham nhũng của tư pháp là nhà nước (thông qua kế hoạch ngân sách cùng các đặc quyền khác nhau) và tư nhân.

Thuật ngữ “tư pháp” cũng được sử dụng để gọi chung cho các nhân viên như thẩm phán, những người tạo thành cốt lõi của một tư pháp (đôi khi được gọi là “băng ghế dự bị”) cũng như các nhân viên giữ Hệ thống vận hành trơn tru.

Lưu ý:   Văn bản trên được trích từ bài viết ” Quyền lực tư pháp ” trên Wikipedia , đã được phát hành theo Giấy phép Tài liệu Tự do GNU .
Th7 13, 2020

Những bài viết liên quan