Nếu bạn có thể du hành ngược thời gian 3,5 tỷ năm, sao Hỏa sẽ trông như thế nào? Bức tranh đó đang phát triển và hoàn thiện giữa các nhà khoa học làm việc với “nhà thám hiểm” Curiosity Rover của NASA.

Nếu bạn có thể du hành ngược thời gian 3,5 tỷ năm, sao Hỏa sẽ trông như thế nào? Bức tranh đó đang phát triển và hoàn thiện giữa các nhà khoa học làm việc với “nhà thám hiểm” Curiosity Rover của NASA.
Hãy tưởng tượng những cái ao nằm rải rác trên miệng của núi lửa Gale – một lưu vực cổ rộng 100 dặm (150 km) mà Curiosity đang khám phá. Các dòng suối có thể đã nối các bức tường của miệng núi lửa và chạy về phía trung tâm của nó. Theo dõi lịch sử đã qua của Gale và bạn sẽ thấy những dòng nước này tràn qua rồi cạn dần, một chu kỳ có thể lặp lại nhiều lần trong hàng triệu năm.
Đó là cảnh quan được mô tả bởi các nhà khoa học Curiosity trong bài báo Khoa học địa chất tự nhiên được công bố ngày hôm nay. Các tác giả giải thích các loại đá làm giàu trong muối khoáng được phát hiện bởi Curiosity Rovẻ là bằng chứng của các ao nuôi cạn đã trải qua các giai đoạn tràn và làm khô. Các ao muối khoáng này đóng vai trò như một kết quả được tạo ra bởi biến động khí hậu khi môi trường trên sao Hỏa chuyển từ nơi ẩm ướt hơn sang sa mạc như ngày nay.
Các nhà khoa học muốn hiểu quá trình chuyển đổi này mất bao lâu và chính xác khi nào nó xảy ra. Manh mối mới nhất này có thể là dấu hiệu của những phát hiện xuất hiện khi Curiosity hướng tới một khu vực gọi là “đơn vị mang sunfat” dự kiến sẽ hình thành trong một môi trường thậm chí còn khô hơn. Nó đại diện cho một sự khác biệt rõ rệt từ dưới núi, nơi Curiosity phát hiện ra bằng chứng về các hồ nước ngọt.
Miệng núi lửa Gale là tàn dư cổ xưa của một tác động lớn. Trầm tích mang theo nước và gió cuối cùng lấp đầy trong miệng hố từng lớp từng lớp một. Sau khi trầm tích cứng lại, gió đã khắc tảng đá xếp lớp lên đỉnh Núi nhọn mà Curiosity đang leo lên ngày hôm nay. Được phơi bày trên sườn núi, mỗi lớp cho thấy một kỷ nguyên khác nhau của lịch sử sao Hỏa và nắm giữ manh mối về môi trường thịnh hành vào thời điểm đó.
Các nhà khoa học đã đến Gale Crater vì nó bảo tồn kỷ lục độc nhất vô nhị về những gì sao Hỏa đang thay đổi. Hiểu được khi nào và làm thế nào khí hậu của hành tinh bắt đầu phát triển là một phần của một câu đố khác: Sao Hỏa có khả năng hỗ trợ sự sống của vi khuẩn trên bề mặt khi nào và trong bao lâu?
Họ mô tả các muối được tìm thấy trên một phần đá trầm tích cao 500 feet (150 mét) được gọi là “Đảo Sutton” – nơi mà Curiosity đã ghé thăm vào năm 2017. Dựa trên một loạt các vết nứt bùn tại một vị trí có tên “Old Soaker”, nhóm nghiên cứu đã biết khu vực này có thời gian khô hạn xen kẽ. Nhưng muối đảo Sutton cho thấy nước cũng được tập trung khu vực vào nước muối này.
Thông thường khi một hồ khô hoàn toàn, nó sẽ để lại đống tinh thể muối tinh khiết phía sau nhưng muối đảo Sutton thì khác. Vì một điều, chúng là muối khoáng chứ không phải muối ăn. Chúng cũng trộn lẫn với trầm tích cho thấy chúng kết tinh trong một môi trường ẩm ướt – có thể ngay bên dưới những ao nông bốc hơi đầy nước.
Từ đó chúng ta có thể thấy rõ Trái đất và Sao Hỏa giống nhau trong những ngày đầu. Đảo Sutton có thể giống như các hồ nước mặn trên Altiplano của Nam Mỹ. Các dòng suối và sông chảy từ các dãy núi vào cao nguyên khô cằn này dẫn đến các lưu vực kín tương tự như miệng núi lửa cổ đại của sao Hỏa. Các hồ trên Altiplano chịu ảnh hưởng nặng nề của khí hậu giống như Gale.
Trong thời kỳ khô hơn, các hồ Altiplano trở nên cạn hơn và một số có thể cạn kiệt hoàn toàn. Thực tế là chúng không có thực vật khiến chúng thậm chí còn trông hơi giống sao Hỏa.
Dấu hiệu của sao Hỏa khô
Những tảng đá làm giàu muối của đảo Sutton chỉ là một đầu mối trong số nhiều nhóm nghiên cứu đang sử dụng để cùng nhau thay đổi khí hậu sao Hỏa thay đổi như thế nào. Nhìn qua toàn bộ hành trình của Curiosity bắt đầu vào năm 2012, nhóm khoa học thấy một chu kỳ ướt đến khô trong thời gian dài trên Sao Hỏa.
Khi Rover leo lên Núi Sharp, các nhà khoa học thấy xu hướng chung từ một cảnh quan ẩm ướt đến khô hơn nhưng xu hướng đó không nhất thiết phải xảy ra theo kiểu tuyến tính. Nhiều khả năng nó rất lộn xộn và bao gồm cả thời kỳ khô hơn như những gì chúng ta đang thấy ở đảo Sutton. Tiếp theo là thời kỳ ẩm ướt hơn giống như những gì chúng ta đang thấy trong ‘đất sét đơn vị mang tên ‘mà Curiosity đang khám phá ngày nay.
Cho đến nay, Curiosity Rover đã gặp phải rất nhiều lớp trầm tích phẳng đã lắng đọng nhẹ nhàng dưới đáy hồ. Curiosity hiện đang chạy trên các cấu trúc đá lớn chỉ có thể hình thành trong môi trường năng lượng cao hơn như khu vực lộng gió hoặc dòng chảy.
Gió hoặc nước đóng cọc lắng đọng thành các lớp nghiêng dần. Khi chúng cứng lại thành đá thì chúng trở thành những cấu trúc lớn tương tự như “Teal Ridge” mà Curiosity đã điều tra vào mùa hè vừa qua.
Tìm các lớp nghiêng thể hiện một sự thay đổi lớn trong đó cảnh quan không còn hoàn toàn dưới nước nữa. Các nhà khoa học có thể đã để lại kỷ nguyên của những hồ nước sâu phía sau.
Curiosity đã theo dõi các lớp nghiêng nhiều hơn trong đơn vị mang sulfate xa. Nhóm khoa học có kế hoạch lái xe tới đó trong vài năm tới và điều tra nhiều cấu trúc đá của nó. Nếu chúng hình thành trong điều kiện khô hơn kéo dài trong một thời gian dài, điều đó có thể có nghĩa là bộ phận chứa đất sét thể hiện cho một giai đoạn ở giữa – một cánh cửa cho một kỷ nguyên khác trong lịch sử nước của Gale Crater.
Các nhà khoa học không thể nói liệu họ có nhìn thấy các mỏ gió hay sông trong đơn vị mang đất sét hay không nhưng họ thoải mái nói rằng nó chắc chắn không giống với những gì ở phía trước.
Để biết thêm về nhiệm vụ rover Curiosity Mars của NASA, hãy truy cập:
Nguồn truyện:
Tài liệu được cung cấp bởi Phòng thí nghiệm Động cơ phản lực của NASA / Jet . Lưu ý: Nội dung có thể được chỉnh sửa cho kiểu dáng và độ dài.
Tạp chí tham khảo :